Sơ cứu chấn thương mà phượt thủ cần biết để xử lý

Tác giả: Đi Đâu Chơi Gì
Đăng ngày: 05/11/2018
Lần cập nhập cuối: 10/06/2020

1. Bỏng

Trước
một đám cháy, việc đầu tiên là quan sát hiện trường để giúp nạn nhân, đồng thời
tránh gây tổn thương cho mình. Hãy loại bỏ nguyên nhân gây bỏng bằng cách tách
nạn nhân khỏi vật gây cháy, cởi bỏ quần áo nếu bén lửa, làm mát vùng bỏng bằng
nước sạch. Nguyên tắc là làm mát da vùng bỏng càng sớm càng tốt tuy nhiên cũng
cần chú ý không dùng đá trực tiếp hoặc nước đá để làm ngâm hoặc chườm , khi thực
hiện cần hết sức nhẹ nhàng để tránh đau, tránh làm vỡ các nốt phỏng sẽ dẫn đến
nguy cơ nhiễm trùng.

Nếu
nạn nhân còn tỉnh, cần cho uống bù nước. Trong thời tiết lạnh, cần giữ ấm cho
cơ thể nạn nhân, nói chuyện động viên nạn nhân nếu họ tỉnh táo, đó cũng là một
biện pháp giúp bệnh nhân đỡ hoảng loạn, giảm cảm giác đau đớn, phần nào tránh
được trạng thái sốc.

Với
trường hợp có nhiều chấn thương khác , nếu quan sát thấy nạn nhân gặp các vấn đề
về đường thở, chảy máu, chấn thương đầu, cột sống, cần ưu tiên tiến hành sơ cấp
cứu ban đầu trước khi đưa đến bệnh viện.

2. Vết thương chảy
máu

Đây
là chấn thương thường gặp nhất khi bị tai nạn giao thông. Nguyên nhân do va đập,
bị vật sắc nhọn đâm hoặc xương gẫy chọc ra ngoài da, cơ, làm tổn thương cơ và mạch máu, Cũng
có thể do bị dè ép gây dập nát phần mềm, xương. Dấu hiệu có thể quan sát bằng mắt
như dập nát hoặc rách da, cơ, nhìn thấy vết thương hở miệng, nhìn thấy đầu
xương chọc ra ngoài, nhìn thấy máu phun thành tia do tổn thương mạch máu. Nạn
nhân cảm thấy lạnh run, vã mồ hôi, da xanh tái, nếu mất quá nhiều máu sẽ dẫn đến
choáng, bất tỉnh, tử vong.

Tuỳ
theo nhận định ban đầu mà ta có thể có các cách xử lý khác nhau:


Mang găng tay hoặc túi nilon sạch khi sơ cứu để tránh lây bệnh truyền nhiễm từ
nạn nhân-đây là biện pháp tốt nhất để tự bảo vệ mình trong hoàn cảnh này.


Vết thương có dị vật lớn cắm vào thì tốt nhất là không nên cố rút dị vật tại chỗ,
việc này sẽ được làm tại cơ sở y tế. Lúc này dị vật có vai trò cầm máu cho vết
thương.


Dùng tay ép chặt hai mép vết thương. Chèn băng, gạc quanh dị vật cho cố định.
Lưu ý không băng trùm lên dị vật. Chuyển nạn nhân tới cơ sở y tế.

Đối
với vết thương chảy máu không có dị vật, cần:


Dùng gạc hoặc vải sạch ép trực tiếp lên vết thương và giữ chặt để cầm máu rồi
băng lại.


Nên xử trí tại chỗ để cầm máu cho bệnh nhân, không nhất thiết phải vận chuyển đến
vị trí thuận lợi hơn trừ trường hợp hiện trường quá bẩn, không an toàn.


Cho nạn nhân nằm ở tư thế đầu thấp hơn chân và ủ ấm.


Thường xuyên kiểm tra phía dưới vị trí băng để xem vùng đó có bị tím tái do thiếu
máu nuôi dưỡng không để nới băng cho phù
hợp. Nếu thấy máu chảy thấm ra ngoài thì dùng băng khác chồng lên.

Với
vết thương chảy máu dập nát hay đứt chi:

– Vết thương đứt lìa chi thì chắc chắn là có tổn
thương mạch máu, cần cầm máu sớm, phần chi bị đứt lìa được cho vào túi nilon sạch
rồi bảo quản trong thùng đá, tránh để trực tiếp vào đá.


Vết thương có máu phun thành tia khả năng nhiều là có tổn thương mạch máu, nếu
không cầm máu kịp thời nạn nhân có thể chết vì mất máu.


Làm garo cầm máu bằng cách cần quấn thật chặt ở vị trí trên vết thương 3-5 cm.
Có thể dùng vải sạch làm garo nếu không có sẵn dụng cụ y tế.

– Xoắn garo từ từ cho đến khi máu hết chảy.

Lưu
ý: Cần giữ ấm và để nạn nhân nằm ở tư thế
đầu thấp, phần cơ thể có vết thương ở cao . Cứ 15 phút hoặc khi thấy vùng dưới
chỗ garo có dấu hiệu tím tái thì nới lỏng garo vài giây rồi xoắn chặt lại. Khi
đưa đến bệnh viện, nên để bệnh nhân ở tư thế nằm, không dùng xe máy.

3. Gãy xương

Khi
xương bị gãy, dấu hiệu điển hình là đau ở vùng gãy, đau hơn khi sờ ấn hoặc cử động,
giảm hoặc không thể cử động chỗ bị thương, kèm theo sưng nề, chảy máu ra ngoài
hoặc chảy máu trong thể hiện vùng bị chấn thương có bầm tím, sưng nề dần. Nếu
gãy xương hở, đầu xương có thể đâm thủng da.

Việc
đầu tiên cần làm là cố định tạm thời bộ phận bị gãy. Tránh làm xương dịch chuyển,
xương dịch chuyển có thể làm tổn thương thêm về mạch máu, thần kinh, cơ. Có thể
dùng các loại nẹp tự tạo từ gỗ, tre, đòn gánh để cố định vùng xương gãy. Nếu
gãy xương ở gần các khớp, phải cố định cả khớp; chẳng hạn gãy xương đùi cần cố
định các khớp háng, khớp gối, khớp cổ chân. Với xương cẳng chân cần cố định khớp
gối, khớp cổ chân; Gãy xương cẳng tay cần cố định khớp khuỷu và khớp cổ tay.

Đặc
biệt là khi gãy xương hở, không được rửa mà chỉ lau xung quanh vết thương, bôi
thuốc sát trùng và băng ép vô khuẩn. Tuyệt đối không ấn đầu xương gãy vào
trong.

Sau
đó nhanh chóng đưa bệnh nhân đến cơ sở y tế gần nhất để điều trị. Có thể dùng
xe máy chở nạn nhân gãy xương chi ở tư thế ngồi. Tuy nhiên trong trường hợp gãy
xương cột sống hay xương đùi cần vận chuyển trên cáng nằm.

4. Bong gân, trật
khớp

Bộ
phận bị bong gân, trật khớp thường có những dấu hiệu: Đau, khó cử động, sưng,
phù nề, bầm tím, biến dạng.

Đối
với bong gân, cần: Hạn chế cử động vùng bị tổn thương. Băng, ép nhẹ vùng tổn
thương và chườm đá. Thỉnh thoảng hỏi nạn nhân xem có bị tê các đầu chi không để
nới lỏng băng cho vừa. Nếu thấy các đầu chi có tái nhợt, nên nới băng lỏng hơn.

Trật
khớp: Không cử động khớp mà cần cố định khớp ở đúng vị trí sai lệch. Không thoa
dầu nóng hay nắn khớp mà chỉ nên chườm lạnh vùng tổn thương. Nếu trật khớp ở
tay, có thể dùng mảnh vải cố định tay vào thân người rồi đưa đến cơ sở y tế gần
nhất.

5. Chấn thương vùng
cổ

Vùng
cổ có tuỷ sống chạy bên trong cột sống, là trung tâm điều khiển vận động cảm
giác toàn bộ cơ thể. Trong trường hợp cấp cứu không đúng, có thể làm cho nạn
nhân trở thành người tàn phế suốt đời.


Khi có nạn nhân bị chấn thương vùng cổ, điều quan trọng nhất là phải cố định
vùng cổ thật tốt, tránh bị xoay, lật trong quá trình vận chuyển. Khi không có nẹp
cột sống cổ, chúng ta có thể dùng vài tờ báo, gấp lại rồi lót xung quanh cổ của
nạn nhân thay cho nẹp cổ sao cho đầu nạn nhân không bị thay đổi tư thế trong
quá trình vận chuyển. Tuyệt đối không cố gắng xoay đầu nạn nhân về tư thế bình
thường. Nhanh chóng đưa nạn nhân đến cơ sở y tế gần nhất.

Sưu
tầm : Ths Nguyễn Đặng Khiêm – Khoa Cấp cứu
, Bệnh viện Hữu Nghị

Exit mobile version